37.Đường khuya trở bước Đinh Hùng Tôi đến đêm xưa, Em vắng nhà, Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa. Tôi từ viễn phố rời chân lại, Chỉ thấy sương nhiều như lệ sa. Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành, Đêm trời, sao cũ sáng long lanh. Lòng ta ngẫm truyện mười phương vậy: Người gái khuê phòng kia mắt xanh? Tôi cũng chưa đi hết dặm đường, Đời dài, mới đến nửa sầu thương. Một đêm trở bước cho lòng nghĩ, Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.
38.Người về Hoàng Hưng Người về từ cõi ấy Vợ khóc một đêm con lạ một ngày Người về từ cõi ấy Bước vào cửa người quen tái mặt Người về từ cõi ấy Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy Một năm sau còn nghẹn giữa cuộc vui Hai năm còn mộng toát mồ hôi Ba năm còn nhớ một con thạch thùng Mười năm còn quen ngồi một mình trong tối Một hôm có kẻ nhìn trân trối Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi Giật mình một cái vỗ vai.
39.Đồng chí Chính Hữu Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đên rét chung chăn, thành đôi tri kỷ Đồng chí! Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay! Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.
40.Khi con tu hú Tố Hữu Khi con tu hú gọi bầy, Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần, Vườn ươm dậy tiếng ve ngân, Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào, Trời xanh càng rộng càng cao, Đôi con tu hú lộn nhào từng không... Ta nghe hè dậy bên lòng, Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi. Ngột làm sao, chết uất thôi, Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.
41.Lên Cấm Sơn Thôi Hữu Tôi lên vùng Cấm Sơn Đi tìm thăm bộ đội Đây bốn bề núi, núi Heo hút vắng tăm người Đèo cao rồi lũng hẹp Dăm túp lều chơi vơi Bộ đội đóng ở đó Cách xa hẳn cuộc đời Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời Họ đã từng dự trận Từ Tiên Yên, Đầm Hà Về An Châu, Biển Động Thấm thoắt hai năm qua Cuộc đời gió bụi pha xương máu Đói rét bao lần xé thịt da Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh Đâu còn tươi nữa những ngày hoa! Lòng tôi xao xuyến tình thương xót Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà Tặng những anh tôi từng rỏ máu Đem thân xơ xác giữ sơn hà Quây quần bên nến trám Chúng tôi ngồi hàn huyên Bao giờ vinh nhục Bao nhiêu phút ưu phiền Của đời người chiến sĩ Đêm thâu kể triền miên: "Có khi gạo hết tiền vơi Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng Có đêm gió bấc lạnh lùng Áo quần rách nát lá dùng che thân Khó khăn đau ốm muôn phần Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi Có phen chạy giặc tơi bời Rừng sâu đói rét, không người hỏi han". Đến nay họ về đây Giữ vững miền núi Cấm Thổ phỉ quét xong rồi Đồn Tây xa chục dặm Kiến thiết lại bản xóm Bị giặc đốt tan tành Trên nền tro đen kịt Vàng hoe màu mái gianh Họ đi tìm dân chúng Lẩn trốn trong rừng xanh Về làm ăn cày cấy Tiếp tục đời yên lành Tiếng hát lừng vang trong gió núi Ngày vàng ngân giọng trẻ ê a Ở đây bản vắng rừng u tối Bộ đội mang gieo ánh chói loà Ở đây đường ngập bùn phân cũ Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà Ở đây những mặt buồn như đất Bộ đội cười lên tươi như hoa. Họ vẫn gầy, vẫn ốm Mắt vẫn lõm, da vàng Áo chăn chưa đủ ấm Ăn uống vẫn tồi tàn Nhưng vẫn vui vẫn nhộn Pháo cười luôn nổ ran Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười Tặng những anh tôi trong lửa đạn Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi.
42.Lời nói dối nhân ái Trang Thế Hy Gió nói với chiếc lá úa: "Trong vòng tuần hoàn bất tận của chiếc lá, Màu vàng của mi trong khoảnh khắc này Là sắc đẹp vĩnh hằng của nhan sắc mùa Thu tàn phai nhanh; Đừng buồn cái đẹp nào cũng phù du vì chỉ có cái phù du mới đẹp" Lá biết gió nói dối nhưng lá vẫn vui vẻ bay vèo theo gió. "Chàng thấy Nàng đẹp rồi chàng mới yêu Anh thì ngược lại, anh yêu trước rồi sau đó mới biết rằng em đẹp" Lời nói dối ngược ngạo luật phản xạ của anh chồng làm ửng hồng đôi má cô vợ trẻ. Cô gái nói với ông già: "Bố đẹp lão quá! Hồi còn trai chắc bố có số đào hoa" Ông già - héo queo như cây kiểng còi - uống lời nói dối cực kỳ khó tin của cô gái như uống giọt nước thần có dược chất hồi xuân Tiếc thay! những lời nói dối ta phải nghe hằng ngày lại là những lời nói dối không nhân ái.
43.Gánh nước đêm Á Nam Trần Tuấn Khải Em bước chân ra, Con đường xa tít, Non sông mù mịt, Bên vai kĩu kịt, Nặng gánh em trở ra về, Ngoảnh cổ trông sông rộng giời khuya... Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai! Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá giời, Con dã tràng lấp bể biết đời nào xong ? Bước đêm khuya thân gái ngại ngùng, Nước non gánh nặng, Cái đức ông chồng hay hỡi có hay ? Em trở vai này...!
44.Tỳ bà Bích Khê Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm Trăng đan qua cành muôn tay êm Mây nhung pha màu thu trên trời Sương lam phơi màu thu muôn nơi Vàng sao nằm im trên hoa gầy Tương tư người xưa thôi qua đây Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề Hoa vừa đưa hương gây đê mê Cây đàn yêu đương làm bằng thơ Cây đàn yêu đương run trong mơ Hồn về trên môi kêu: em ơi Thuyền hồn không đi lên chơi vơi Tôi qua tìm nàng vay du dương Tôi mang lên lầu lên cung Thương Tôi không bao giờ thôi yêu nàng Tình tang tôi nghe như tình lang Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu Sao tôi không màng kêu: em yêu Trăng nay không nàng như trăng thiu Đêm nay không nàng như đêm hiu Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân Buồn sang cây tùng thăm đông quân Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. * Bài thơ chỉ dùng thanh bằng
45.Gửi bác Trần Nhuận Minh Trần Đăng Khoa Bỏ làng ra thành phố Hai anh em thợ cày Thân cũng như hoa cỏ Hồn gửi vào gió mây Người bảo bác theo Đỗ Em phải học Lý thôi Bác đã bay dưới đất Em đành đi trên giời Bác âm thầm chìm nổi Cùng kiếp người lang thang Em lông nhông bầu bạn Với kiến đen chó vàng Bao nhiêu là giun dế Đã khiêng vác em lên Tên tuổi em xủng xoảng Những mõ ran trống rền… Bác làm bông lau tàn Thả hồn vào hoang vắng Khi buồn thì hát ca Lúc vui thì im lặng Em quấy bầu trăng gió Bác gánh bao nỗi người Sánh đôi mà đơn độc Đi mang mang trong đời Giờ thì em đã chán Những vinh quang hão huyền Muốn làm làn mây trắng Bay cho chiều bình yên Trả niềm vui cho cỏ Trả nỗi buồn cho cây Lại áo tơi nón là Ta về với luống cày Đất trời thì chật hẹp Làng quê thì mênh mông Thung thăng em với bác Ta cưỡi thơ ra đồng.
46.Thu điếu Nguyễn Khuyến Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
47.Bến My Lăng Yến Lan Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách, Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu. Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách, Ông lái buồn để gió lén mơn râu. Ông không muốn run người ra tiếng địch, Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao. Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch, Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao. Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng, Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh, Để đêm buồn vây phủ bến Má Lăng Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã, Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly, Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi. Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách, Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng. Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách, Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng. Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Yến Lan và Bến My Lăng huyền thoại Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách, Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu. Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách, Ông lái buồn, để gió lén mơn râu. Đó là bốn câu đầu trong bài thơ "Bến My Lăng" của Yến Lan, bài thơ có thể đứng được với đời. Không một người yêu thơ nào không biết bài thơ này vì vẻ đẹp huyền ảo của cảnh cũng như vẻ diễm lệ của lời thơ. Nhưng nhiều người băn khoăn tự hỏi : bến My Lăng ở đâu? Không có ở Sông Côn Bình Định, cũng không có tại bất cứ con sông nào trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng có hề chi chuyện ấy. Nhà thơ tưởng mình có thể lên trời như Tản Đà, lên tiên như Thế Lữ, thì sao lại không thể tưởng tượng ra một bến sông huyền hoặc để gửi gắm vào đấy cõi hồn mình? Tuy nhiên, cũng có người muốn hiểu rõ nguồn cội của cái bến sông nổi tiếng ấy nên đã tìm đến tác giả và ông đã thành thực giãi bày : -"Khi tôi chừng 6-7 tuổi thì mẹ tôi đau nặng phải nằm chữa bệnh ở quê ngoại bên kia sông. Hằng ngày tôi phải mang thức ăn cho mẹ và phải gọi đò qua sông cho đến khi mẹ tôi mất. Từ đó tiếng gọi đò cứ vang vọng trong tâm thức tôi như một nỗi ám ảnh, như tiếng gõ cửa vào một thế giới khác. Người lái đò đưa tôi qua sông năm ấy lại chính là cậu ruột tôi. Trong bóng chiều nhập nhoạng, dáng ông phảng phất như một tráng sĩ khi chống sào qua bến vắng. Bến sông ấy có một doi cát vàng nằm xoải ra như cái chân mày hình lưỡi mác, cha tôi gọi là My Lăng. Cả ba sự việc trên : sự chờ đợi (đợi đò), hoài niệm về một thời đã qua (tráng sĩ) và dáng dấp cao sang của một vùng văn hóa (chân mày hình lưỡi mác) trộn lẫn trong tâm thức tôi và nó cứ lớn dần theo thời gian. Chừng mười năm sau thì tôi viết được "Bến My Lăng" (1). Rồi ông thêm : - Khi viết bài thơ này, tôi đặt tên "Bến My Lăng" để kỷ niệm về một bến sông đã đi sâu vào tuổi thơ. Cái tên Bến My Lăng ấy không có thật, nhưng kỷ niệm thì vẫn còn mãi trong lòng tôi. Trong thời tiền chiến, Bình Định là một tỉnh có nhiều thi tài, mà nổi tiếng nhất là bốn người trong "xóm thơ Bình Định" (2) : Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn và Chế Lan Viên. Một bạn yêu thơ ở Bình Định là Trần Thống ở thôn Kiên Mỹ, huyện Bình Khê tặng cho bốn nhà thơ thân yêu nhau như anh em ruột ấy cái tên "Bàn thành tứ hữu" (Bốn người bạn thành Đồ Bàn). Lại cũng có người gọi bốn nhà thơ này là "Tứ linh" (Long, Lân, Qui, Phụng) : Hàn Mặc Tử là Long (Rồng) Yến Lan là Lân (Kỳ lân) Quách Tấn là Qui (Rùa) Chế Lan Viên là Phụng (chim phượng) Yến Lan là nhà thơ cuối cùng của "Xóm thơ Bình Định" rời bỏ cõi trần. Ông tên thật là Lâm Thanh Lang, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1916 (Bính Thìn) tại làng An Ngãi, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo ông, sở dĩ có bút hiệu Yến Lan vì thời trẻ, gần nhà ông có hai cô gái chơi thân với nhau. Hai cô đều xinh đẹp, nết na và dễ thương. Một cô tên Yến, một cô tên Lan. Hai cô cùng yêu thơ nên dễ có cảm tình với tác giả. Về sau cô Lan trở thành vợ ông, còn cô Yến thì biệt vô âm tín. Bút hiệu Yến Lan ra đời từ đó. Ngoài ra ông còn có bút hiệu Xuân Khai. Yến Lan nổi tiếng hay thơ từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Chính Yến Lan dìu dắt Chế Lan Viên (Yến Lan lớn hơn Chế Lan Viên 4 tuổi và học trên Chế 3 lớp) rồi cùng Chế Lan Viên nắm tay nhau đi trên đường văn chương sự nghiệp. Năm 1937, Yến Lan cùng Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên sáng lập ra "Trường thơ Loạn". Lúc ấy Chế Lan Viên đã xuất bản tập thơ "Điêu tàn", Hàn Mặc Tử đã hoàn tất tập thơ "Điên",Yến Lan đã có tập thơ "Giếng loạn" và "Bến My Lăng". Ba tập thơ Giếng loạn, Điêu tàn và Thơ điên làm nền tảng cho Trường thơ Loạn. Hai bài tựa của tập Điêu tàn và Thơ điên là "tuyên ngôn" của Trường thơ Loạn. Do câu ca dao : Chiều chiều mây kéo về kinh, Ếch kêu giếng loạn thảm tình đôi ta mà Yến Lan đã viết nên tập thơ Giếng loạn. (tập thơ này đã mất). Trường thơ Loạn ra đời ở một tỉnh nhỏ lại gặp lúc phong trào lãng mạn đang lên cao nên chẳng được bao lâu thì chết yểu (3). Thi tài của Yến Lan nảy nở rất sớm. Từ năm 1935, lúc mới 19 tuổi và thơ mới mới có 3 tuổi (1932 – 1935), ông đã có nhiều tứ thơ táo bạo và lối biểu đạt tân kỳ. Tả một cánh buồm cô đơn cùng với con thuyền sau một cuộc hải trình vất vả về nghỉ ngơi bên cạnh hòn đảo, trên sóng nước dịu dàng, ông viết : Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ, Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi. "Sầu tam giác" là một tứ thơ mới lạ (cánh buồm hình tam giác), "nhịp hoãn hòa" cũng là một ý thơ hay, diễn tả được cảnh sóng vỗ thong thả, nhịp nhàng vào hòn đảo. Ở Sầm Sơn có Hòn Trống và Hòn Mái. Nắng chiều trùm lên các trang viên khiến ông tưởng chừng như đôi cánh bồ câu giăng ra ấp ủ : Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm, Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang. Thật là giàu tưởng tượng. Yến Lan còn là nhà thơ giàu tình cảm. Ông yêu thiên nhiên, yêu quê hương Bình Định, yêu người thân, bạn bè bằng một mối tình thiết tha sâu nặng. * YÊU THIÊN NHIÊN, ông yêu màu xanh của con sóng, yêu màn sương bao phủ Vọng Hải đài (ở Ngũ hành sơn), yêu đá chồng nhiều lớp như một kho tàng quý báu mà thiên nhiên dành tặng cho con người : Xanh biêng biếc, sóng con chồm bạc tóc, Vọng Hải đài sương khóa kín tâm tư. Đá chồng chất, phải chăng ôm mộng ngọc, Chút kho tàng ngày tháng giữ khư khư. (Xa xanh) Yêu thiên nhiên, ông yêu hoa và hương. Hương của hoa sói, hoa nhài, hoa dạ lan đều đáng yêu cả, mỗi loài hoa có một mùi hương khác nhau. Còn lòng em có đợi tình anh chuyển hương sang? Hoa sói, hoa nhài tự bốc hương, Dạ lan theo gió tỏa đêm trường. Lòng em đang nở mùa sim dại Có đợi tình anh hương chuyển sang? (Hoa và hương) Yêu thiên nhiên và yêu hoa, ban công nhà Yến Lan thường có trồng hoa, có lẽ để nhớ vườn lan của ông ở Bình Định ngày xưa : Ngấp nghé hiên tây mấy khóm hồng, Hoa nhài giậu bắc, lựu tường đông. Yêu hoa chẳng để thềm nam trống, Đêm mộng mai vàng đến trổ bông. (Thềm nhà phía nam) Nhưng trong thiên nhiên, ánh trăng mới làm ông say mê nhất. Riêng trong bài "Bến My Lăng" ta có thể đếm được chín chữ "trăng". Ánh trăng ở đây mới lung linh huyền ảo làm sao ! Ánh trăng bàng bạc, mênh mông, tràn ngập con thuyền, rơi vàng trên mặt sách, chiếc áo màu ngọc lưu ly của chàng kỵ mã nhúng đầy trăng, còn ông lão đưa đò thì say trăng, gối đầu lên trang sách ngủ say đến nỗi không nghe tiếng gọi đò của chàng kỵ mã : Nhưng đêm kia, đến một chàng kỵ mã, Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly. Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả, Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi. (Bến My Lăng) * YÊU QUÊ HƯƠNG, Yến Lan không bao giờ quên Bình Định. Mỗi người ai cũng có một quê hương để yêu, nhưng với Bình Định, Yến Lan đã yêu tha thiết nơi chôn nhau cắt rốn này, nơi đã ghi lại trong ký ức của ông biết bao kỷ niệm thời niên thiếu với bạn bè, với người ruột thịt. Vì thế ông đã làm đến ba bài thơ về Bình Định : Bình Định 1935, Bình Định 1945 và Bình Định 1975-1976, mỗi bài đều ghi dấu ấn về kỷ niệm và các biến cố lịch sử tại mảnh đất này. Khi có người hỏi ông thích nhất bài thơ nào trong các tác phẩm của mình, có phải bài thơ nổi tiếng Bến My Lăng không thì ông sốt sắng trả lời : - Không, bài thơ mà tôi thích nhất là bài "Bình Định 1935", trong đó tôi đã gửi gắm biết bao kỷ niệm và tâm tư tình cảm của mình : Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt, Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền Tịch dương – liễu không biết mình đang biếc, Tương tư trời – tương tư….. nhạc triền miên. ….. Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc, Em nằm thương xanh biếc của trời buồn. Trên đài trán thơ hằng lên vọng nguyệt, Nguyệt còn nương thuyền nhạc khuất trong sương. (Bình Định 1935) Rồi Cách mạng tháng tám đã về. Yến Lan hòa mình vào dòng chảy cách mạng với niềm vui náo nức, niềm sung sướng tự hào. Vui biết bao hình ảnh đàn chim bồ câu tung cánh trắng trong nắng đào, tiếng chuông tu viện reo vang niềm hạnh phúc và em nữa, em đi trong lầu thơ để dệt nên trang tình sử tuyệt vời : Lầu cửa Đông có nghe em tâm sự, Em đi trong tình sử của lầu thơ. Hai chúng ta bước qua đêm quá khứ, Ngoảnh đôi đầu không còn thấy bơ vơ. (Bình Định 1945) Rồi ba mươi năm sau, đất nước hòa bình, thống nhất, Bắc Nam chung một mái nhà, Yến Lan trở về Bình Định, lòng rộn lên biết bao kỷ niệm thời niên thiếu. Này đây bến My Lăng thơ mộng với cát bồi cong quá nửa, này đây bà con, bạn bè ngày xưa nay tóc đã điểm sương và này đây tiếng chuông tu viện ngân nga trong khung cảnh thanh bình, an lạc. Tác giả muốn tung hồn mình ra ôm choàng cả không gian, cả Bình Định thân yêu và đẹp đẽ vô ngần : Xanh sắc lại, mênh mông trời rộng mở, Hồn ta nay ước choàng cả không gian. Ơi Bình Định, từ con tim ấp lửa Bừng lên – bừng thành một cuộc hoa đăng. (Bình Định 1975-1976) Yêu Bình Định, Yến Lan yêu cả tiếng chuông đã một thời gieo vào lòng ông những âm thanh buồn vui lẫn lộn : Tám tư (1984) về lại ở An Nhơn, Phố cũ, người xưa chẳng mấy còn. Đêm đến nằm nghe cành liễu phất, Chợt nhìn quen thuộc tiếng chuông boong. (Tiếng chuông ngày cũ) Ta thường chỉ "nghe" được tiếng chuông, còn Yến Lan thì "nhìn" được tiếng chuông, ở đây thị giác và thính giác đã hòa quyện lẫn nhau nên nghe được sắc màu và nhìn được âm thanh. Yến Lan còn có những bài thơ Nhớ làng, Lại về tỉnh nhỏ, An Lão, Phù Ly (4) đậm đà tình yêu quê hương xứ sở. Trong bài thơ "Lại về tỉnh nhỏ", ông nhớ quê hương mình đã một thời đầm ấm yên vui nhưng rồi có biết bao thay đổi, đó đây hiện lên những nét buồn vời vợi và quang cảnh man mác đìu hiu : Tỉnh nhỏ Đìu hiu. Mặt trời ngủ giữa chiều, Trở mình trên mái rạ. … Tỉnh nhỏ Cô em Nằm xem Kiếm hiệp. (Lại về tỉnh nhỏ) * YÊU NGƯỜI THÂN, Yến Lan không sao quên được người mẹ chịu thương chịu khó suốt đời để lo cho chồng con và mất sớm có lẽ vì quá vất vả : …. Sống cầm kim chỉ cóng tay tê, Khi chết đi, đầu mẹ vẫn quay về. Nhưng sao khỏi cau mày trong nắm đất (Chuyện quê ngoại) Ông thương mẹ cam chịu long đong, lận đận để lo cho cái gia đình bé bỏng của mình không một lời thở than, trách móc : Thương xưa mẹ sống đời sông bến, Một lá đò đưa nặng gánh gồng. (Mùa lụt thăm quê mẹ) Mẹ mất rồi, chị phải thay mẹ nuôi em. Ông yêu biết bao người chị cả, quên cả tuổi thanh xuân của mình, ngày ngày lấy nghề vấn thuốc lá để nuôi em. Nhưng tuổi xuân qua mau, thời gian không đợi, một ngày kia chị cũng phải đi lấy chồng : Khế chua chị nấu lá mồng tơi, Em ước cùng ăn đến trọn đời. Tang mẹ mãn rồi, bà mối giục, Chị đi, bát đũa cũng mồ côi. * YÊU BẠN BÈ, Yến Lan đã viết những vần thơ thân thiết, chí tình. Khi ở miền Bắc, xa bạn, nửa đêm nghe tiếng chim bìm bịp kêu ở đầu lán, ông không sao ngủ được, ra đứng nhìn vành trăng khuyết mà bâng khuâng nhớ bạn : Sang canh, bìm bịp kêu đầu lán, Đất mới, nhà đơn, lạ láng giềng. Nhớ bạn, nửa đêm ra tựa liếp, Khuyết cong mày bạc, ngấn trăng in. (Nhớ bạn) Thật ít có ai như ông, nhớ bạn, tìm đến nhà bạn để thăm, khi tìm được nhà rồi thì ngần ngại không vào vì "sợ vào đúng nhà" và e "vườn, cỏ um tùm – sách, mốc meo" : Chợ cách đò giang, xóm cách đèo, Phải đây nhà bạn đứng cheo leo? Muốn vào, sợ đúng nơi tìm đến, Vườn, cỏ um tùm – sách, mốc meo. (Tìm bạn cũ) Lời thơ chân tình và đôn hậu biết bao ! Lẽ tất nhiên, trong số bạn bè, Yến Lan thân nhất với các bạn trong "Bàn thành tứ hữu". Với Yến Lan, Quách Tấn có nhiều kỷ niệm khó quên. Ông kể : Lúc Yến Lan ở Nha Trang có ít nhiều kỷ niệm. Một trong những kỷ niệm này là cây me. Cây me mọc bên cạnh đình Xương Huân, gốc thì đứng bên vườn đình, song một phần lớn tán lá trùm lên mái nhà bếp của tôi. Cây me này sống có trên vài trăm năm, gốc đã to đến hai ôm và lòng đã bộng từ rễ đến ngọn. Một hôm me chín, lũ con tôi muốn ăn nhưng cây cao quá, đành đứng dưới dốc ngó lên. Yến Lan thấy vậy liền bắc thang leo lên mái nhà rồi chuyền sang cây me mà hái. Hình ảnh ấy trong mấy mươi năm vẫn sống trong lòng tôi. Mùa thu năm Mậu Thân (1968) lòng bỗng nhớ Yến Lan da diết, tôi ra đứng tần ngần dưới gốc me. Bỗng một trận lá me vàng tuôn xuống làm sống dậy bóng dáng cố nhân ! Gần mười lăm năm ly biệt, không một tin đưa ! Bồi hồi áo não, tôi viết được một bài lục bát : Me thu lã chã mưa vàng, Nắng thu hiu hắt bóng chàng năm xưa. Bấy chầy cách trở nắng mưa, Đời Ly Tao ngọt hay chua hỡi lòng? Chàng đây là Yến Lan. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Yến Lan và Quách Tấn cùng sống ở Bình Định, hai người ở cách nhau trên dưới ba mươi cây số, không phải là xa, nhưng ít được gặp nhau vì đường sá bị phá hoại, việc giao thiệp bị hạn chế và kế mưu sinh chiếm hết cả thì giờ : Quách Tấn ngồi thắt gióng, Yến Lan nấu xà phòng. Văn chương tỉnh Bình Định Phó mặc Nguyễn Thành Long (5). Yến Lan có làm một bài thơ tứ tuyệt tặng Quách Tấn, lời thơ rất xúc động, đầy tình cảm trìu mến thân thương. Tuy là đề tặng Quách Tấn nhưng không gửi trực tiếp cho Quách Tấn mà chỉ đăng báo. Bài thơ viết năm 1982 mà mãi đến tám năm sau mới đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay <:I>số 45, ngày 1 tháng 10 năm 1990 (trang 28) : Nhớ bạn nhiều hôm da diết nhớ, Lại đành không tiện viết thư thăm. Ngại trao tâm sự cho tờ giấy Đè nặng thêm tay kẻ nhận cầm. (Vô tình và hữu tình) Tuy sống lâu năm ở Hà Nội, nhưng Chế Lan Viên vẫn luôn nhớ quê hương, nên khi hòa bình thống nhất được ít lâu, Chế quay trở về Nam, dựng được một "lầu thơ" ở quận Tân Bình mang cái tên rất thơ là "Viên tĩnh viên". Dịp này Yến Lan mừng bạn bằng một bài thơ tứ tuyệt : Tuổi sáu mươi hai (1982) có cửa nhà, Có vườn gió nắng, ngõ sương hoa. Theo thơ, đời mãi làm thân khách, Làm chủ, giờ thêm bạn với thơ. (Mừng bạn có nhà) Năm 1989 Chế Lan Viên qua đời. Nhân ngày giỗ Chế, Yến Lan làm bài thơ "Ngắm hoa quỳnh nhớ Chế Lan Viên" để viếng Chế, lời thơ thật xúc động, đầy tình cảm : Hương tạ trời khuya đẫm sắc quỳnh, Nửa nghiêng tiền kiếp, nửa lai sinh. Lẫn vào sương khói ba canh mộng, Một cánh phù hoa bỗng lộ hình. Bình Định tháng 6-1994 Vào cuối đời, Yến Lan quay về với thơ tứ tuyệt. Tập "Thơ tứ tuyệt" của ông do Nhà xuất bản Hội Nhà văn in năm 1996 gồm 160 bài chọn từ hàng trăm bài thơ tứ tuyệt của ông sáng tác trong mấy chục năm qua. Tác giả viết về quê hương yêu dấu, về những nơi đã qua, đã sống, về người đồng hương, về bạn bè, người thân bằng lời thơ súc tích và tình cảm chân thành. Đến viếng chùa Hương, một thắng cảnh từng làm say đắm bao người, ông viết : Chua ngọt chạm đầu lưỡi, Chát đắng ẩn trong men. Chén rượu trên Bến Đục Sóng sánh tiếng chuông thiền. (Rượu mơ uống ở chùa Hương) Viết cho người thân yêu, tình cảm của tác giả rất chân thành và tha thiết : Cùng chim tu hú bạn bao giờ, Tuổi nhỏ con chưa rời thủ đô. Nay chiến trường xa tìm đến gặp, Rắc màu hoa gạo đỏ trong thơ. (Tu hú) Thuở xưa, Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa bướm, lúc tỉnh dậy băn khoăn tự hỏi không biết mình hóa bướm hay bướm hóa ra mình. Còn Yến Lan buổi sáng đọc Nam Hoa kinh (6) nhưng buổi tối không hóa bướm nên mừng mình làm chủ được mình : Sáng đọc Nam Hoa kinh, Tối nằm không hóa bướm. Mừng mình chủ được mình, Dậy thổi nồi khoai sớm. (Đọc Nam Hoa kinh) Từ năm 80 tuổi trở đi, Yến Lan ngày càng suy yếu, sức tàn lực kiệt, cuộc sống chỉ còn đếm trên đốt ngón tay nhưng ông vẫn làm thơ : Tay bưng thuốc đắng nhìn xuyên chén, Năm tháng còn trên mấy đốt tay. Khi có bạn cũ đến thăm bên giường bệnh, ông mừng lắm rồi lại làm thơ : Mở mắt nhìn qua ai đến thăm, Thì ra bạn cũ đã mười năm. Câu thơ ngày ấy nhòa mưa hạ, Còn nửa vầng trăng cứ khuyết thầm. Ngày 5-10-1998 Yến Lan đã ra đi, mang theo vầng trăng lung linh thuở nào trên bến đò huyền thoại. Mai sau, bạn đọc có thể quên thơ Yến Lan, nhưng chắc không thể nào quên được vầng trăng huyền ảo trên bến My Lăng đã một thời làm xao xuyến lòng người. ___________________________________________________________________ (1) Trích Nhà văn Việt Nam thế kỷ 20 (NXB Hội Nhà Văn VN - Hà Nội 1999) tập 4 trang 427. (2) "Xóm thơ Bình Định" : chữ của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam. (3) Theo cuốn Bóng ngày qua của Quách Tấn (NXB Văn Nghệ TP.HCM 2001). (4) An Lão, Phù Ly : hai địa danh ở tỉnh Bình Định. (5) Sđd trang 204-205. (6) Nam Hoa kinh : tên một bộ sách của Trang Tử thời Chiến quốc.
48.Tháp Chàm Văn Lê Ngút ngàn ở giữa rừng xanh Hiện lên ngọn tháp một mình cô đơn Người xưa đã chọn mặt tường Để lưu giữ lấy tâm hồn thiêng liêng Nắng chiều ngọn tháp đổ nghiêng Thời gian ăn rỗng cả viên gạch hồng Vậy mà trong thớ đất nung Vẫn còn in đậm chân dung con người Còn đây vũ nữ lả lơi Trăm năm vẫn múa không người lại xem Thần tình yêu nép bên thềm Mũi tên số phận chưa tìm đích bay Còn đây một mẩu cánh tay Một bàn chân gãy, một cây gươm cùn Một con ngựa mất yên cương Một cây cung cháy, lửa cồn xung quanh Những gì thuộc của chiến tranh Chẳng còn giữ được nguyên lành, lạ không! Bao năm gió táp mưa rừng Vẫn không xóa được chân dung con người Để chiều nay trước mắt tôi Một người múa với một người đứng xem Vô tư như một ngọn đèn Tháp Chàm lặng lẽ sáng lên giữa rừng.
49.Ông đồVũ Đình Liên Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu, giấy đỏ Bên phố đông người qua Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa, rồng bay Nhưng mỗi năm, mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ?
50.Đèo CảHữu Loan Đèo Cả! Đèo Cả! Núi cao ngất! Mây trời Ai Lao Sầu đại dương Dặm về heo hút Đá bia mù sương! Bên quán hồng quân Người Ngựa Mỏi Nhìn dốc Ngồi than Thương ai lên đường Chầy ngày Lạc giữa núi Sau chân Lối vàng xanh tuôn Dưới cây Bên suối độc Cheo leo Chòi canh Như biên cương. Tức Râu trùm vai rộng Không nhận ra người làng Rau khe Cơm vắt Áo phai màu chiến trường Ngày thêm Vượn hú Đêm canh Gặp hùm Lang thang! Gian nguy Lòng không nhạt Căm thù trăm năm xa Máu nghiêng sôi dào dạt Từ nguồn thiêng Ông cha. - Cầu xây chiến lũy ngất Đây hình hài thiên hoa! - Xâm lăng! - Xâm lăng! Súng Thèm Gươm Khát - Ai ngâm Lung lay Đêm quê nhà! Nhớ về thăm Đèo Cả Hậu phương từ rất xa Ăn với nhau Bữa heo rừng Công thui Chấm muối Ngủ với nhau Sạp rừng Nửa tối Biệt nhau Rừng hoang Canh gà Râu ngược Chào nhau Bên vách núi Giặc từ Vũng Rô bắn tới Giặc từ trong tràn ra Nhưng Đèo Cả Vẫn Giữ Vững Chân đèo Nam Máu giặc Mấy lần Nắng khô Sau mỗi lần thắng Những người trấn Đèo Cả Về bên suối Đánh cờ Người hái cam rừng Ăn nheo mắt Người vá áo Thiếu kim Mài sắt Người đập mảnh chai Vểnh cằm Cạo râu... Suối mang bóng người Soi Những Về Đâu ?!
51.Viếng bạn Hoàng Lộc Hôm qua còn theo anh Đi ra đường quốc lộ Hôm nay đã chặthơ cành Đắp cho người dưới mộ Đứa nào bắn anh đó Súng nào nhằm trúng anh Khôn thiêng xin chỉ mặt Gọi tên nó ra anh! Tên nó là đế quốc Tên nó là thực dân Nó là thằng thổ phỉ Hay là đứa Việt gian? Khóc anh không nước mắt Mà lòng đau như thắt Gọi anh chửa thành lời Mà hàm răng dính chặt Ở đây không gỗ ván Vùi anh trong tấm chăn Của đồng bào Cửa Ngăn Tặng tôi ngày phân tán Mai mốt bên cửa rừng Anh có nghe súng nổ Là chúng tôi đang cố Tiêu diệt kẻ thù chung.
52.Tiếng thu Lưu Trọng Lư Em không nghe mùa thu, Dưới trăng mờ thổn thức ? Em không nghe rạo rực, Hình ảnh kẻ chinh phu, Trong lòng người cô phụ ? Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô ? 1939
53.Nhớ rừng Thế Lữ Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm, Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm, Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi. Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, Với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa. Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội, Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc. Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc, Là khiến cho mọi vật đều im hơi, Ta biết ta chúa tể muôn của loài Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi. Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới ? Đâu những bình minh cây xanh nắng gội, Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng ? Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng. Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật ? -- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu ? Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu, Ghét những cảnh không đời nào thay đổi, Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: Hoa chăm, cỏ sén, lối phẳng cây trồng; Giải nước đen giả suối, chẳng thông giòng Len dưới nách những mô gò thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm, Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả, âm u. Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị. Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa Nơi ta không còn được thấy bao giờ Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi, -- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi! 1936
54.Một vị tướng về hưu Nguyễn Đức Mậu (Tặng Nguyễn Chuông và những người anh ở Sư đoàn cũ) Thôi, đã dứt đường binh nghiệp Tuổi hưu rồi bác ở quê Chạnh nhớ bạn bè thuở trước Cùng đi có đứa không về Người vợ tuổi già như bác Miếng trầu nhai dập chiều mưa Hồi son trẻ xa nhau mãi Giờ thương biết mấy cho vừa Huân chương xếp vào góc tủ Nay hàm tướng tá mà chi Tuổi già công danh xem nhẹ Cuộc đời như nước trôi đi Thuở trước bạn cùng súng đạn Nay khuây hàng xóm bạn già Bao dốc bao rừng đã vượt Lối mòn quanh quẩn vào ra Ngày đi khuất bóng mẹ cha Ngày về sửa sang mộ cũ Âm thầm một tấc đất sâu Hương khói tỏ mờ mầu cỏ Ngôi nhà nắng mưa vẫn đó Ðàn con mỗi đứa một nơi Nếu không có trẻ hàng xóm Tuổi già hẳn nhiều đơn côi Những đêm gió thổi buốt trời Vết thương cũ còn đau nhức Ôi sư đoàn xưa giờ đâu Người cũ, ai còn, ai mất? Về hưu giờ thôi quyền chức Ai người nhớ bác lại chơi Ai kẻ xa lòng, tránh mặt Niềm riêng một mảnh trăng trời...
55.Những mùa trăng mong chờ Lê Thị Mây Thư anh tin ngày về Cho vầng trăng hẹn mọc Trong ngần cao hoa thơm Mây chớm màu tha thiết Trăng non nghiêng qua rồi Bom rung vầng trăng khuyết Xô thuyền trong xa xôi Giữa gập nghềnh núi biếc Anh khoác balô về Ðất trời dồn chật lại Em tái nhợt niềm vui Như trăng mọc ban ngày Gặp nhau tròn mùa trăng Em trẻ như bầu trời Vòng tay anh đằm thắm Giầu lời ru trên môi Mai lại tiễn xa nhau Vầng trăng cong chẽn lúa Ðêm đêm chín ngàn sao Rỏ vào tim giọt lửa Mong chờ em mong chờ Vầng trăng xinh ... gương mặt Sáng sáng đầy theo anh Suốt chặng đường đánh giặc.